Home
1-luan-an-thac-si
y-duoc-sinh-hoc
Nghiên cứu kết quả cắt Polyp trực tràng bằng thòng lọng nhiệt điện qua nội soi tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
Nghiên cứu kết quả cắt Polyp trực tràng bằng thòng lọng nhiệt điện qua nội soi tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
Nghiên
cứu kết quả cắt Polyp trực tràng bằng thòng lọng nhiệt điện qua nội soi tại
bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
ĐẶT
VẤN ĐỀ
Polyp đại tràng nói chung hay polyp trực tràng nói riêng đã
được biết đến từ lâu về những ảnh hưởng cũng như những biến chứng của polyp đối
với sức khoẻ con người. Theo thống kê tại Mỹ, polyp đại trực tràng có ở 15-20%
người trưởng thành khoẻ mạnh, khoảng 1% số trẻ ở tuổi học đường bị bệnh này, ở
người trên 60 tuổi polyp đại trực tràng chiếm tỉ lệ khoảng 10% [40].
Phần lớn các polyp lành tính nhưng, có sự liên hệ giữa polyp
và ung thư đại trực tràng, trước khi có nội soi để chẩn đoán bệnh lý đại trực
tràng, người ta dựa vào kết quả chụp X- quang đại trực tràng cản quang, tuy
nhiên 1 số bệnh lý trong đó có polyp đại trực tràng nhiều khi khó phát hiện
trên phim chụp X- quang vì thế nên số lượng bệnh nhân và những nghiên cứu về
bệnh này chưa nhiều. Ngày nay, nhờ có sự tiến bộ về thiết bị kỹ thuật của nội
soi, kết hợp với những chương trình khám sàng lọc nhằm phát hiện sớm polyp đại
trực tràng trong cộng đồng, nên số lượng bệnh nhân có polyp đại trực tràng được
phát hiện ngày càng nhiều, do đó đã có nhiều công trình nghiên cứu về bệnh này.
Những diễn biến của polyp đại trực tràng thì vẫn khá phức tạp, đặc biệt là
polyp có thể tiến triển thành ung thư. Ung thư đại trực tràng là nguyên nhân
gây tử vong nhiều thứ 2 và chiếm 14% các trường hợp tử vong do ung thư, ung thư
đại trực tràng có thể phòng ngừa được nếu phát hiện sớm các polyp tiền ung thư
và cắt bỏ sớm trước khi chúng trở thành ác tính [20]. Ngoài nguy cơ tiến triển
thành ung thư, polyp đại trực tràng còn gây ra một số triệu chứng như: rối loạn
tiêu hoá, chảy máu, đau bụng, lồng ruột v. v. Nguy cơ phát triển thành ung thư
liên quan đến số lượng, kích thước và đặc điểm vi thể của polyp, số polyp càng
nhiều, kích thước polyp càng to thì nguy cơ tiến triển thành ung thư càng cao,
tuy nhiên do không thể theo dõi được sự tiến triển của tất cả các polyp nên với
tất cả các polyp ở mọi kích thước đều nên cắt bỏ càng sớm càng tốt [24]. Có
nhiều phương pháp cắt bỏ polyp đại trực tràng nhưng phương pháp cắt polyp qua
nội soi bằng nhiệt điện hoặc bằng laser hiện nay đang được nhiều nước ứng dụng,
vì đây là kỹ thuật tiên tiến có nhiều ưu việt. Không những tiết kiệm được chi
phí chữa bệnh, giảm thời gian nằm điều trị nội trú mà lại không ảnh hưởng nhiều
đến sức khoẻ người bệnh. Đặc biệt nếu phát hiện và cắt bỏ sớm những polyp mới
có ổ ung thư tại chỗ thì có thể ngăn chặn được ung thư đại trực tràng do polyp
tiến triển thành [4], [7]. Trong đó nội soi và mô bệnh học rất quan trọng và có
vai trò chính để phát hiện sớm sự tái phát và tiến triển bất thường tại vị trí
đã cắt polyp.
Trên thế giới và tại Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên
cứu về polyp đại trực tràng [35], [36], [44], việc áp dụng những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật của ngành nội soi trong chẩn đoán và điều trị polyp trực
tràng đã đem lại kết quả rất đáng kể. Tại Bệnh viện Đa khoa trung ương Thái
Nguyên, từ năm 2003 chúng tôi tiến hành cắt polyp trực tràng bằng thòng lọng nhiệt
điện qua nội soi, bước đầu đã mang lại được nhiều thành công đáng kể giúp cho
bệnh nhân giảm được chi phí chữa bệnh do không phải nằm điều trị nội trú, giảm
đáng kể các ca phẫu thuật mở thành bụng cắt polyp. Hiện nay tại Bệnh viện Đa
khoa trung ương Thái Nguyên chưa có công trình nào nghiên cứu về lĩnh vực này,
vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, nội soi và mô bệnh học của polyp
trực tràng.
2. Đánh giá kết quả của phương pháp cắt polyp trực tràng qua
nội soi bằng nhiệt điện.
Xem online tài liệu bị lỗi các bạn nên down về
Bài viết liên quan