[giaban]0.000 VNĐ[/giaban] [kythuat]
Nghiên cứu lựa chọn điều kiện thích hợp đến khả năng sinh enzyme ngoại bào manganese peroxidase, phân hủy thuốc nhuộm từ chủng nấm sợi Aspergillus sp. FBH11

[/kythuat]
[tomtat]
Nghiên cứu lựa chọn điều kiện thích hợp đến khả năng sinh enzyme ngoại bào manganese peroxidase, phân hủy thuốc nhuộm từ chủng nấm sợi Aspergillus sp. FBH11
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói chiến dịch dùng hóa chất ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh hóa học lớn nhất thế giới. Trong thời gian hơn 10 năm từ năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ đã rải khoảng 100 triệu lít các loại chất diệt cỏ chứa dioxin xuống nhiều vùng miền Trung và miền Nam Việt Nam. Các nghiên cứu của nhiều cơ quan khoa học và công nghệ Việt Nam và phân tích một số mẫu tại Cộng hòa Liên bang Nga, Canada, Nhật Bản, các phòng phân tích của Hoa Kỳ cho thấy trong đất tại sân bay Đà Nẵng cũng như Biên Hòa độ tồn lưu của PCDDs, PCDFs, 2,4,5-T, 2,4-D, TCD, DCP, PAHs vẫn còn cao. Một số đặc điểm nổi bật là tại sân bay Đà Nẵng đồng phân 2,3,7,8-TCDD đã phân tích được ở mức khá cao và rất cao chiếm tới 90% tổng độ độc. Trong nhiều mẫu đất, tổng độ độc 2,3,7,8-TCDD lớn hơn 99% tất cả độ độc của PCDDs và PCDFs. Ngoài ra, hàm lượng 2,4-D và 2,4,5-T vẫn còn ở mức rất lớn.
Do vậy, việc nghiên cứu để tìm ra giải pháp tẩy độc các điểm nóng nhiễm chất độc hóa học là một nhiệm vụ hết sức cần thiết. Nhóm nghiên cứu các hợp chất khó phân hủy (POP) - Viện Công nghệ sinh học đã và đang tiến hành nghiên cứu và triển khai ứng dụng công nghệ phân hủy sinh học trong các hố chôn lấp tích cực (tức là cô lập, hấp phụ kết hợp với kích thích sinh học) để xử lý đất nhiễm chất diệt cỏ chứa dioxin tại sân bay Đà Nẵng và Biên Hòa. Trong 11 năm nghiên cứu bằng công nghệ phân hủy sinh học 50-70% tổng độ độc đã bị loại bỏ trong thời gian 2 năm [3]. Công trình tẩy độc 3384 m3 đất nhiễm chất diệt cỏ/dioxin tại sân bay Biên Hòa bằng công nghệ phân hủy sinh học đã được thực hiện từ năm 2009 và đang trong quá trình quan trắc và đánh giá hiệu quả khử độc.
Một trong bốn cơ chế phân hủy dioxin hay POP nói chung, cơ chế xúc tác phá vỡ cấu trúc của dioxin và các chất vòng thơm khác gần đây đang rất được quan tâm. Vì vậy phân lập và tuyển chọn những chủng vi sinh vật có khả năng sinh tổng hợp enzyme ngoại bào để thúc đẩy việc xử lý khử độc đã được nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu.
Hệ enzyme ngoại bào thường được trong xử lý sinh học đất và sử dụng enzyme ngoại bào cho các quá trình xử lý các chất hữu cơ khác là một định hướng rất quan trọng, chúng có khả năng phá vỡ các liên kết trong các hợp chất hữu cơ hoặc xúc tác chuyển hóa chúng thành các chất ít độc hơn và các dạng dễ phân hủy hơn. Nhóm enzyme ngoại bào có vai trò lớn trong quá trình phân hủy các hợp chất khó phân hủy gồm có laccase (Lac), manganese peroxidase (MnP), lignin peroxidase (LiP), trong đó enzyme MnP là một trong những enzyme có khả năng ứng dụng cao.
Trên thế giới, ba loại enzyme MnP, LiP và Lac được nghiên cứu nhiều nhất và tập trung trên đối tượng nấm đảm. Như đã đề cập ở trên tại Việt Nam, việc nghiên cứu và ứng dụng ba loại enzyme nói trên mới bắt đầu trong vài năm gần đây nhất là trên đối tượng chất độc hóa học chất diệt cỏ chứa dioxin chưa có nhiều nghiên cứu. Do đó, việc nghiên cứu và tìm ra được các loại enzyme ngoại bào sinh tổng hợp từ các chủng vi sinh vật bản địa tại đất nhiễm chất diệt cỏ/dioxin là hướng đi có tính khả thi cho việc áp dụng vào xử lý các khu vực đang bị ô nhiễm và là nguyên liệu sinh học cho các quá trình xử lý các chất vòng thơm khác trong đó có thuốc nhuộm.
Hiện nay, tình trạng ô nhiễm thuốc nhuộm, màu ở Việt Nam đã trở nên báo động. Các nhà máy, hộ gia đình trong quá trình sản xuất vải sợi đã thải trực tiếp nước nhuộm vải sợi ra môi trường mà không qua bất kỳ một phương pháp xử lý nào. Ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống của bộ phận lớn khu dân cư lân cận. Do đó, xây dựng các quy trình công nghệ để xử lý nước thải cho ngành công nghiệp này là một trong những ưu tiên ở Việt Nam. Song, cho tới nay chúng tôi vẫn chưa tìm thấy một tài liệu nào công bố về phương pháp phân hủy thuốc nhuộm, màu đã được áp dụng thành công trên quy mô lớn ở Việt Nam. Vấn đề đặt ra là liệu rằng chúng ta có thể xây dựng một “công nghệ xanh” để áp dụng xử lý triệt để vấn đề ô nhiễm thuốc nhuộm? Đó là câu hỏi cho các nhà khoa học công nghệ Việt Nam trước thực trạng ô nhiễm màu hiện nay!
Dựa trên những kết quả phân lập các chủng vi sinh vật tại khu vực nhiễm chất diệt cỏ/dioxin tại sân bay Biên Hòa, một số chủng nấm sợi đã được phân lập tuyển chọn. Với mục đích có cơ sở khoa học để ứng dụng một trong ba enzyme ngoại bào trong xử lý ô nhiễm các chất đa vòng thơm, chúng tôi đã thực hiện đề tài: Nghiên cứu lựa chọn điều kiện thích hợp đến khả năng sinh enzyme ngoại bào manganese peroxidase, phân hủy thuốc nhuộm từ chủng nấm sợi Aspergillus sp. FBH11
Các nội dung nghiên cứu bao gồm:
1, Phân lập, tuyển chọn và sàng lọc các chủng nấm sợi có khả năng sinh enzyme ngoại bào MnP, LiP và laccase cao từ mẫu đất nhiễm chất diệt cỏ/dioxin tại sân bay Biên Hòa.
2, Lựa chọn điều kiện nuôi cấy thích hợp cho chủng nấm được lựa chọn sinh MnP cao.
3, Đánh giá khả năng phân hủy thuốc nhuộm của chủng nấm và từ dịch enzyme thô trong điều kiện phòng thí nghiệm.
4, Lên men rắn, lên men lỏng trong bioreactor, thu dịch enzyme để thử nghiệm xử lý các chất vòng thơm trong đó có thuốc nhuộm.

Xem online tài liệu bị lỗi các bạn nên down về 
[/tomtat]

Bài viết liên quan